• Mail: htdnv247@gmail.com
  • 0909 206 247

 

Những lưu ý về tiền lương của NLĐ trong dịch Covid hiện nay. Chúng ta cần giải quyết như thế nào khi xảy ra những vấn đề phát sinh?

1- Giảm lương NLĐ khi đang làm việc tại trong thời gian dịch bệnh:
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 95 Bộ luật Lao động 2019 (BLLĐ) như sau: 

Điều 95. Trả lương

1. Người sử dụng lao động trả lương cho người lao động căn cứ vào tiền lương đã thỏa thuận, năng suất lao động và chất lượng thực hiện công việc.

...

Như vậy, đối với trường hợp Doanh nghiệp giảm tiền lương khi NLĐ đang làm việc tại nhà do dịch bệnh là không phù hợp, bởi lẽ tiền lương mà NLĐ nhận được đều dựa trên thỏa thuận trong hợp đồng lao động, năng suất và chất lượng công việc chứ không dựa trên địa điểm làm việc.

Thêm vào đó, khi NLĐ nhận lương, DN cần phải thông báo bảng kê trả lương, trong đó ghi rõ tiền lương, tiền lương làm thêm giờ, tiền lương làm việc vào ban đêm, nội dung và số tiền bị khấu trừ (nếu có).

2- Doanh nghiệp có được trễ lương vì Covid 19 hay không?
Nguyên tắc trả lương cho NLĐ được quy định tại Điều 94 BLLĐ 2019 “Người sử dụng lao động phải trả lương trực tiếp, đầy đủ, đúng hạn cho người lao động”.Tuy nhiên, vì dịch bệnh Covid ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh DN có thể trả lương chậm khi đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định pháp luật, chẳng hạn: Doanh nghiệp đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng không thể trả lương đúng hạn thì thời gian trả chậm không được quá 30 ngày.

Lưu ý: Nếu trả lương chậm từ 15 ngày trở lên thì người sử dụng lao động phải đền bù cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng số tiền lãi của số tiền trả chậm tính theo lãi suất huy động tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng do ngân hàng nơi người sử dụng lao động mở tài khoản trả lương cho người lao động công bố tại thời điểm trả lương. (Khoản 1 Điều 97 BLLĐ 2019)

3- DN có quyền không trả lương hoặc giam lương khi NLĐ không thể nhận trực tiếp hay không?
Vì tình hình dịch bệnh diễn biến khá phức tạp, đa số NLĐ chọn làm việc tại nhà nên sẽ không thể vào Công ty trực tiếp nhận lương, bởi lẽ theo quy định tại Khoản 1 Điều 94 “...trường hợp người lao động không thể nhận lương trực tiếp thì người sử dụng lao động có thể trả lương cho người được người lao động ủy quyền hợp pháp.” và NLĐ sẽ phải tự chịu trách nhiệm khi ủy quyền nhận thay.

Mặt khác, tại Khoản 2 Điều 96 quy định:

...

2. Lương được trả bằng tiền mặt hoặc trả qua tài khoản cá nhân của người lao động được mở tại ngân hàng.

Trường hợp trả lương qua tài khoản cá nhân của người lao động được mở tại ngân hàng thì người sử dụng lao động phải trả các loại phí liên quan đến việc mở tài khoản và chuyển tiền lương.

Như vậy, nếu NLĐ không thể trực tiếp nhận lương thì DN sẽ trả lương cho người được NLĐ ủy quyền nhận thay hay trả qua tài khoản cá nhân.

*4- NLĐ có được hưởng lương khi ngừng việc trong tình hình dịch Covid hay không?
Để giải quyết vấn đề này cần dựa vào Điều 99 BLLĐ 2019 quy định NLĐ vẫn được hưởng lương trong các trường hợp sau đây:

- Nếu do lỗi của người sử dụng lao động thì người lao động được trả đủ tiền lương theo hợp đồng lao động;

- Nếu do lỗi của người lao động thì người đó không được trả lương; những người lao động khác trong cùng đơn vị phải ngừng việc thì được trả lương theo mức do hai bên thỏa thuận nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu;

- Nếu vì sự cố về điện, nước mà không do lỗi của người sử dụng lao động hoặc do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh nguy hiểm, địch họa, di dời địa điểm hoạt động theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc vì lý do kinh tế thì hai bên thỏa thuận về tiền lương ngừng việc.

Đối với các trường hợp trên, trước khi quyết định trả lương ngừng việc cho NLĐ cần xem xét các trường hợp lỗi gây ra là do bên nào (NDLĐ hay NLĐ hoặc do một vài nguyên nhân khách quan khác).

Ngoài ra,

Trường hợp ngừng việc từ 14 ngày làm việc trở xuống thì tiền lương ngừng việc được thỏa thuận không thấp hơn mức lương tối thiểu;
Trường hợp phải ngừng việc trên 14 ngày làm việc thì tiền lương ngừng việc do hai bên thỏa thuận nhưng phải bảo đảm tiền lương ngừng việc trong 14 ngày đầu tiên không thấp hơn mức lương tối thiểu.

 

Căn cứ pháp lý:  Bộ luật Lao động 2019

social